Như vậy Công an xã, phường, thị trấn sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm thì thực hiện lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm, lấy lời khai người bị tố giác, người bị hại, người làm chứng và những người có liên quan Điều luật gồm 2 khoản trong đó, khoản 1 là định nghĩa khái niệm tội phạm và khoản 2 có nội dung xác định ranh giới giữa tội phạm với vi phạm. Kể từ BLHS năm 1985 đến nay, các BLHS Việt Nam đều có điều luật định nghĩa khái niệm tội phạm. Cũng như định nghĩa tội Những tháng đầu năm 2022 tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, các tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu có xu hướng gia tăng, chủ yếu là tội "Trộm cắp tài sản".. Trước tình hình dịch Covid- 19 diễn biến phức tạp, kéo dài, nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh tạm ngừng hoạt động, dẫn Quy định của Luật Tố tụng hình sự về khám nghiệm tử thi: Trong luật hình sự, khám nghiệm tử thi được coi là một bước quan trọng cần được thực hiện cẩn thận khi đối tượng chết một cách bất thường. lý do không rõ. Khi nghiên cứu về tội phạm thì: Khi nghiên cứu về tội phạm thì: A. Tội phạm là một hiện tượng mang tính tự nhiên. B. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử. C. Tội phạm là một hiện tượng tồn tại vĩnh viễn. D. Tội phạm là một hiện tượng mang tính bẩm sinh. Hướng dẫn. Chọn B là đáp án đúng. Khi nghiên cứu về trường hợp này, khi bắt giữ người mà gây ra thiệt hại hợp pháp, có quan điểm cho rằng, "việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang có lệnh truy nã nếu cần thiết phải dùng vũ lực với họ, thì có thể căn cứ vào chế định phòng vệ chính đáng q6FW. Khi nghiên cứu về tội phạm thì A. Tội phạm là một hiện tượng mang tính tự nhiên B. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử C. Tội phạm là một hiện tượng tồn tại vĩnh viễn D. Tội phạm là một hiện tượng mang tính bẩm sinh Hướng dẫn Chọn B là đáp án đúng Câu hỏi Khi nghiên cứu về tội phạm thì A. Tội phạm là một hiện tượng mang tính tự nhiên B. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử C. Tội phạm là một hiện tượng tồn tại vĩnh viễn D. Tội phạm là một hiện tượng mang tính bẩm sinh Lời giải tham khảo Đáp án đúng B Nghiên cứu tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong tội phạm học. Bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau, cho ta thấy “bức tranh toàn cảnh” về tội phạm đã xảy ra. Nghiên cứu tình hình tội phạm là nghiên cứu thực trạng và diễn biến của tội phạm, đó là "bức tranh" toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. Để có được “bức tranh” như vậy, đòi hỏi việc nghiên cứu tình hình tội phạm phải thực hiện các nội dung nghiên cứu cụ thể và cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với các nội dung nghiên cứu cụ thể Ý nghĩa của nghiên cứu tình hình tội phạm Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh" toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm định lượng tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội - con số phản ánh mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra mà còn thể hiện cả đặc điểm định tính các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra mà còn thể hiện cả diễn biến tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như về tính chất của tình trạng này. Nghiên cứu tình hình tội phạm không chỉ dừng lại ở mô tả “bức tranh tội phạm” mà đòi hỏi còn phải phân tích “bức tranh”, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra - nghiêm trọng về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất. Mô tả và phân tích “bức tranh tội phạm” trong nghiên cứu tình hình tội phạm không phải chỉ để “biết” những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm. 2. Phương pháp nghiên cứu tình hình phạm tội Nghiên cứu tình hình tội phạm với mục đích để đánh giá, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới là dạng nghiên cứu mô tả trong nghiên cứu thực nghiệm. Đó là quá trình gồm hai bước -Bước thu thập dữ liệu thực tiễn phản ánh nội dung định lượng và nội dung định tính của thực trạng và diễn biến cùa tội phạm trong đơn vị không gian và thời gian xác định. Đó là dữ liệu về số lượng tội phạm và người phạm tội, dữ liệu về các cơ cấu của tội phạm mà qua đó phản ánh được tính chất của tội phạm trong thời gian tổng thể và trong từng năm. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tìm kiếm luận cứ thực tế. -Bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được để kiểm chứng các giả thuyết mô tả tình hình tội phạm và đi đến các nhận định về thực trạng và diễn biến của tội phạm được nghiên cứu. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tổ chức chứng minh luận điểm khoa Về bước thứ nhất Đây là bước quan trọng, tạo cơ sở cho bước thứ hai. Trong bước thu thập dữ liệu này, với các đòi hỏi của yêu câu mô tả thì các phương pháp tiếp cận cần phải được lựa chọn là tiếp cận định lượng, tiếp cận tổng thể và tiếp cận bộ phận. Để có thể tiếp cận bộ phận đúng đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng đúng các phương pháp chọn mẫu. Trong đó, các phương pháp chọn mẫu thường được lựa chọn là chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Phương pháp thu thập dữ liệu thường được ưu tiên sử dụng trong thực tế là phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu. Trước hết là các dữ liệu có trong thống kê tội phạm của các cơ quan tư pháp trung ương và địa phương công an, viện kiểm sát và toà án. Việc thu thập các dữ liệu thống kê tội phạm có sẵn này cần được tận dụng tối đa. Tuy nhiên, các thống kê tội phạm có sẵn này đều có giới hạn mà không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của người nghiên cứu. Do vậy, người nghiên cứu bên cạnh việc sử dụng dữ liệu đã có sẵn trong thống kê vẫn cần phải tự thu thập các dữ liệu khác qua việc phân tích các dữ liệu có trong các bản án hình sự. Đây cũng là dạng đặc thù của phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu. Nội dung các dữ liệu thu thập theo kiểu này được người nghiên cứu đặt ra để đảm bảo phục vụ mục đích nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, người nghiên cứu không thể nghiên cứu toàn bộ các bản án thuộc phạm vi nghiên cứu của mình. Ở đây, người nghiên cứu không thể chọn cách tiếp cận tổng thể mà phải chọn cách tiếp cận bộ phận, vấn đề được đặt ra là chọn bộ phận nào? Với số lượng bao nhiêu? Người nghiên cứu không thể tuỳ tiện chọn mà phải tuân theo các nguyên tắc chọn mẫu để đảm bảo tính đại diện. Cùng với phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu trên, người nghiên cứu còn có thể sử dụng một số phương pháp khác để thu thập dữ liệu như phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra tự Về bước thứ hai Đây là bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được. Đối với các dữ liệu dưới dạng số liệu phục vụ mô tả đặc điểm định lượng của tội phạm thực trạng của tội phạm xét về mức độ cũng như diễn biến của tội phạm xét về mức độ thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp thống với các dữ liệu phục vụ mô tả đặc điểm định tính của tội phạm thực trạng của tội phạm xét về tính chất cũng như diễn biến của tội phạm xét về tính chất thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp logic để có được các kết luận về tính chất cũng như diễn biến về tính chất của tội phạm được nghiên là hai phương pháp xử lí dữ liệu cùng được sử dụng khi nghiên cứu tình hình tội phạm. Xử lí các dữ liệu để đi đến các nhận định về tình hình tội phạm đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng các phương pháp kiểm chứng giả thuyết. Thông thường phương pháp kiểm chứng được sử dụng là phương pháp chứng minh giả thuyết. Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH EverestBài viết trong lĩnh vực hình sự nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail [email protected]. Nguyên nhân của tội phạm là vấn đề luôn làm các nhà nghiên cứu phải đau đầu bới tìm hiểu về nguyên nhân của tội phạm đòi hỏi người nghiên cứu phải tiếp cận đa chiều với việc phân tích các nhân tố khác nhau có thể tác động, ảnh hưởng đến việc phát sinh tội phạm. Khái niệm Nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp các nhân tố mà sự tác động qua lại giữa chúng đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tội phạm, ở mức độ tổng quan có thể chia nguyên nhân của tội phạm thành những nhóm nguyên nhân sau - Nhóm nguyên nhân từ môi trường sống; - Nhóm nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội; - Tình huống cụ thể trong một số trường hợp được coi là nguyên nhân đưa đến việc phát sinh tội phạm; Như vậy có thể tóm gọn lại có thể mô tả nguyên nhân tội phạm như sau Cá nhân chịu tác động từ môi trường sống tiêu cực khi gặp những tình huống cụ thể sẽ hình thành nên nhân cách sai lệch cá nhân từ đó nảy sinh ý định phạm tội đồng thời tiếp tục gặp những tình huống cụ thể từ đó dẫn đến việc thực hiện tội phạm. Phân loại nguyên nhân của tội phạm Tội phạm phát sinh là kết quả tác động của hàng loạt các nguyên nhân khác, nhau. Trong tội phạm học, các nhà khoa học có các cách phân loại nguyên nhân của tội phạm sauThứ nhất, căn cứ vào mức độ tác động của nguyên nhân trong việc làm phát sinh tội phạm, có thể chia nguyên nhân thành nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm là những nhân tố đóng vai trò chủ chốt trong việc làm phát sinh tội phạm và những nhân tố này chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh tội phạm. Nguyên nhân thứ yếu làm phát sinh tội phạm là những nhân tố chỉ đóng vai trò hạn chế trong việc làm phát sinh 101 phạm và những nhân tố này chiếm tỉ trọng không đáng kể trong tông sô các nhân tố làm phát sinh tội hai, căn cứ vào nguồn gốc xuất hiện, có thể chia nguyên nhân của tội phạm thành nguyên nhân bắt nguồn từ môi trường sống và nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội. Nguyên nhân bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định mà từ đó làm phát sinh tội phạm. Ví dụ như các nhân tố môi trường gia đình không hoàn thiện, môi trường nơi cư trú có nhiều tệ nạn xã hội... Nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng, dẫn đến việc làm phát sinh tội phạm của người phạm tội. Những nhân tố tiêu cực này có thể là các yếu tố thuộc về sinh học, tâm lí, xã hội-nghề nghiệp của người phạm ba, căn cứ vào lĩnh vực hình thành nguyên nhận có thể chia nguyên nhân của tội phạm thành các nguyên nhân sau Đầu tiên, với nguyên nhân về kinh tế-xã hội Đây là những nhân tố thuộc về lĩnh vực kinh tế-xã hội có thể tác động làm phát sinh tội phạm như tình trạng thât nghiệp, đói nghèo, tác động của quá trình đô thị và công nghiệp hoá, tác động của quá trình di dân... Tiếp theo, nguyên nhân về văn hoá, giáo dục Đây có thể là những nhân tố hạn chế trong quá trình quản lí, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hoá, giáo dục có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tội phạm. Ví dụ Nhà trường chưa coi trọng việc giáo dục các em gái biết cách tự bảo vệ bản thân nhằm ngăn chặn hiệu quả tội phạm tình dục. Bên cạnh đó nguyên nhân về tổ chức qụản lí có thể là do một số thiếu sót, bât cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lí trong lĩnh vực nhất định. Thuộc về nguyên nhân này có thể là các nhân tố như buông lỏng quản lí, đùn đẩy trách nhiệm, không hợp tác trong giải quyết vụ việc,... Cuối cùng là nguyên nhân về chính sách, pháp luật Đây có thể là một số thiếu sót, bất cập của chính sách, pháp luật có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tội phạm. Ví dụ như quy định về giải phóng mặt bằng, đền bù đất nông nghiệp còn lỏng lẻo dẫn đến một số cá nhân hoặc doanh nghiệp lợi dụng sơ hở của pháp luật để đền bù không thoả đáng cho một số hộ dân dẫn đến những người này có phản ứng tiêu cực là chống người thi hành công vụ. Khuyến nghị 1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. 2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail [email protected]. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là những vấn đề sự vật, hiện tượng mà ngành khoa học này nghiên cứu trong những phạm vi, mức độ nghiên cứu cụ thể nhằm đạt được mục đích của nó. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học Việt Nam gồm bốn vấn đề cơ bản sau đây1. Tình hình tội phạm Để có cơ sở phòng chống tội phạm trước hết phải hiểu bản chất của nó. Luật hình sự nghiên cứu tội phạm ở mức độ hành vi. Hành vi phạm tội có những thuộc tính, dấu hiệu đặc trưng khác với những hành vi xã hội khác”. Tuy nhiên, tội phạm được tội phạm học nghiên cứu ở các mức độ tồn tại khác nhau, không chỉ ở mức độ hành vi mà còn ở mức độ chung nhất, khái quát nhất, đó là “tình hình tội phạm”. Và chỉ khi có sự nghiên cứu tội phạm từ mức độ hành vi sang mức độ khái quát như vậy thì mới có thể nhận thức được đầy đủ “bức tranh” tình hình tội phạm, từ đó định ra một chiến lược, chương trình phòng ngừa tội phạm đồng bộ ở các cấp độ. Ở góc độ xã hội, tội phạm học quan niệm tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội được hình thành từ những xử sự có tính xã hội. Ở góc độ pháp lý, tình hình tội phạm được tạo thành từ những hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Như vậy, tội phạm học đã tiếp cận tình hình tội phạm ở khía cạnh xã hội – pháp lý. Hình minh họa. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học Tình hình tội phạm tồn tại khách quan và có những đặc điểm, thuộc tính riêng của nó. Dựa vào các thuộc tính, đặc điểm này có thể biết được tính chất của tình hình tội phạm và phân biệt nó với các hiện tượng khác hiện diện trong xã hội. Vì vậy, những thuộc tính, dấu hiệu của tình hình tội phạm là nội dung đầu tiên của tình hình hình tội phạm được tội phạm học nghiên cứu. Mặt khác, các thông số của tình hình tội phạm cũng được tội phạm học làm sáng tỏ để có cơ sở đánh giá sự tồn tại, phổ biến của tình hình tội phạm đã xảy ra. Như vậy, các thuộc tính, đặc điểm tình hình tội phạm và các thông số tình hình tội phạm là hai nội dung đầu tiên, quan trọng cần nhận thức về tình hình tội phạm. Tội phạm học nghiên cứu tình hình tội phạm ở ba mức độ tình hình tội phạm chung bao gồm tất cả các tội phạm, loại tội phạm bao gồm những tội phạm có cùng đặc điểm, tính chất và tội phạm cụ thể. Mỗi mức độ tồn tại đều có quy luật riêng và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng tuân theo quy luật của cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép biện chứng duy vật. Tình hình tội phạm cũng được tội phạm học nghiên cứu ở những phạm vi địa bàn hoặc ngành – lĩnh vực khác nhau và trong những giai đoạn, thời điểm khác nhau. Có thể nói tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản, trung tâm trong tội phạm học. Những hiểu biết ban đầu về tình hình tội phạm sẽ mở ra những nội dung nghiên cứu khác có liên quan như nguyên nhân phạm tội, dự báo tình hình tội phạm, phòng ngừa tội phạm,… 2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm Sự tồn tại tình hình tội phạm luôn luôn có nguyên nhân và điều kiện. Nhu cầu nhận thức về tình hình tội phạm tất yếu đưa đến việc tìm hiểu các nguyên nhân và điều kiện của nó. Mặt khác, hoạt động phòng ngừa tội phạm hướng đến loại bỏ các nguyên nhân và điều kiện. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là nội dung quan trọng thuộc đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được tội phạm học nghiên cứu là những hiện tượng, quá trình có khả năng làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm. Nội dung và yêu cầu nghiên cứu là làm sáng tỏ những hiện tượng, quá trình nào có vai trò làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng trong cơ chế đó. Vấn đề quan trọng là chứng minh được mối quan hệ nhân quả để thấy được tình hình tội phạm là kết quả tất yếu của một số nguyên nhân và điều kiện nhất định. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được nghiên cứu ở phạm vi và mức độ chung nhất nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, ở phạm vi và mức độ loại tội phạm nguyên nhân và điều kiện của loại tội phạm, ở phạm vi và mức độ tội phạm cụ thể. Trên cơ sở các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có thể biết được quy luật của tình hình tội phạm, xu hướng của nó và xây dựng các biện pháp phòng ngừa nó trong tương lai. 3. Nhân thân người phạm tội Tội phạm do con người thực hiện, do đó muốn tìm hiểu bản chất tội phạm hoặc tình hình tội phạm cần nghiên cứu con người phạm tội, mà cụ thể là làm sáng tỏ các đặc điểm nhân thân. Mặt khác, các biện pháp phòng chống tội phạm chủ yếu tác động đến con người phạm tội và các mối quan hệ xã hội của con người. Do đó, nhân thân người phạm tội trở thành đối tượng nghiên cứu của tội phạm học… Nhân thân người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu bao gồm các đặc điểm đặc trưng, điển hình phản ánh bản chất người phạm tội. Những đặc điểm này có vai trò trong cơ chế hành vi phạm tội, góp phần làm phát sinh tội phạm. Nội dung nghiên cứu nhân thân người phạm tội, trước hết là tìm hiểu nguồn gốc hình thành các đặc điểm nhân thân, sau đó phân tích để làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất và mức độ tác động các đặc điểm nhân thân đó trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Mặt khác, mối quan hệ biện chứng giữa các đặc điểm sinh học và các đặc điểm xã hội của người phạm tội cũng là một chủ đề quan trọng của tội phạm học. Vấn đề phân loại kiểu hóa người phạm tội cũng được tiến hành sau khi tìm hiểu các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Những đặc điểm nhân thân người phạm tội được nghiên cứu ở các khía cạnh sinh học, tâm lý, xã hội và pháp lý. Tất nhiên, không phải tất cả các đặc điểm nhân thân của người phạm tội đều là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học mà chỉ có những đặc điểm nhân thân nào có ý nghĩa đối với việc thực hiện tội phạm và phòng chống tội phạm mới được tội phạm học nghiên cứu. Chỉ khi nào nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc về con người phạm tội thông qua các đặc điểm nhân thân của họ mới có thể “giải mã” được vì sao một người phạm tội và phạm tội này chứ không phạm tội khác. Và khi đó có thể dự báo được tội phạm và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. 4. Phòng ngừa tội phạm Phòng ngừa tội phạm là mục tiêu, đồng thời cũng là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Kết quả của quá trình nhận thức về tội phạm và con người phạm tội sẽ đem lại nhiều ý nghĩa nếu được vận dụng vào thực tiễn phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa tội phạm được tội phạm học nghiên cứu bao gồm các biện pháp, các nguyên tắc, các chủ thể phòng ngừa tội phạm; vấn đề dự báo tội phạm và kế hoạch hóa hoạt động phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa tội phạm được nghiên cứu ở phương diện xã hội và pháp lý; phòng ngừa toàn bộ tội phạm nói chung, phòng ngừa loại tội phạm và tội phạm cụ thể; phòng ngừa theo chủ thể chịu tác động của biện pháp; phòng ngừa tội phạm ở phạm vi quốc gia, địa phương, ngành và lĩnh vực hoạt động xã hội. Như vậy, chỉ khi nào tội phạm học nghiên cứu đầy đủ những vấn đề cơ bản nêu trên thì mới có thể nhận thức đầy đủ về tình hình tội phạm và lĩnh vực hoạt động phòng ngừa tội phạm. Ngoài ra, tội phạm học còn nghiên cứu những vấn đề liên quan khác như Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học, Nạn nhân học, Tội phạm học nước ngoài, Hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm…. Tầm quan trọng và hướng nghiên cứu của nó được tóm tắt như sau Thứ nhất, Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học. Khía cạnh lịch sử của tội phạm học phản ánh “dòng chảy” tư tưởng về tội phạm và phòng ngừa tội phạm xuyên suốt các thời kỳ lịch sử cùng với các thành tựu cũng như những hạn chế của nó. Nghiên cứu lịch sử là để kế thừa và định hướng phát triển tội phạm học. Mặt khác, những sáng kiến, kinh nghiệm được rút ra từ lịch sử tội phạm học có thể được vận dụng trong thực tiễn phòng chống tội phạm. Ngày nay, tri thức về lịch sử của tội phạm học có vị trí quan trọng trong hệ thống tội phạm học. Thứ hai, Nạn nhân học. Nạn nhân của tội phạm cũng là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Nếu đặt vấn đề vì sao một người phạm tội và tìm hiểu nhân thân người phạm tội, thì ngược lại, cũng cần đặt câu hỏi vì sao một người trở thành nạn nhân của tội phạm và tất yếu phải nghiên cứu khía cạnh nạn nhân của tội phạm. Nạn nhân được nghiên cứu trong tội phạm học không hạn chế ở việc giải thích các tình huống phạm tội liên quan đến nạn nhân mà còn giải quyết nhiều nhiệm vụ lý luận và thực tiễn khác về phòng ngừa tội phạm. Tri thức về nạn nhân của tội phạm nạn nhân học còn được xem như là phần phụ sub-area của tội phạm học. Thứ ba, Tội phạm học nước ngoài. Ngày nay, tội phạm học phát triển mạnh ở nhiều quốc gia và có những đóng góp đáng kể cho hoạt động phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, quan điểm về tội phạm và phòng ngừa tội phạm trong lý luận và thực tiễn của các nước có thể có những điểm tương đồng và khác biệt cần được tham khảo, đặc biệt là tội phạm học của những nước có trình độ phát triển. – Một hướng tiếp cận khác đối với tội phạm học nước ngoài là nghiên cứu ở góc độ so sánh – gọi là “Tội phạm học So sánh” Comparative Criminology. Như vậy, tội phạm học nước ngoài cũng là một đối tượng nghiên cứu đồng thời là một lĩnh vực tri thức của Tội phạm học. Thứ tư, hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm. Nếu xem xét vấn đề một cách độc lập thì hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm diễn ra ở ba hướng chính. Một là, hợp tác thông qua lập pháp hình sự, trong đó các quốc gia thống nhất về các dấu hiệu pháp lý hình sự đối với các tội phạm có tính chất quốc tế như khủng bố, rửa tiền, buôn bán người,… và tinh thần áp dụng các biện pháp chế tài đối với các tội phạm đó. Hai là, các quốc gia thỏa thuận nội dung, cách thức tương trợ tư pháp hình sự theo dõi, điều tra tội phạm, dẫn độ, chuyển giao phạm nhân thi hành hình phạt tù,…. Thực chất đây là hợp tác ở khía cạnh tố tụng hình sự. Ba là, hợp tác trong việc trao đổi thông tin về tội phạm có tính chất quốc tế, nguyên nhân và xu hướng của nó; hợp tác trong việc áp dụng các biện pháp kiểm soát tội phạm và phòng ngừa tội phạm giữa các quốc gia, giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế; hợp tác trong đào tạo cán bộ, hỗ trợ phương tiện kỹ thuật, tài chính,… Hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm ở khía cạnh này là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học.

khi nghiên cứu về tội phạm thì