Đáp án đúng: B. Vì phổi động vật có nhiều phế nang nên diện tích bề mặt trao đổi khí lớn. Phổi động vật thực hiện trao đổi khí hiệu quả hơn vì phổi động vật có nhiều phế nang, diện tích bề mặt trao đổi khí lớn. Cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội tìm hiểu về hô hấp của động vật nhé! I. Hô hấp là gì?
Tổng thư ký Guterres phát biểu tại hội nghị của LHQ về đại dương ở Bồ Đào Nha cuối tháng 6. Ảnh: AFP. Về ứng phó biến đổi khí hậu, Đại sứ khẳng định lại cam kết của Việt Nam tại COP26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, đề nghị LHQ và Tổ chức Pháp ngữ hợp tác để hỗ trợ các nước
Trong đường hô hấp, sự trao đổi khí diễn ra ở phế nang của cả hai phổi. Các phế nang là những túi khí nhỏ được bao phủ bởi một chất liệu được gọi là chất hoạt động bề mặt. Chất này cho phép các phế nang giãn nở và co lại trong quá trình hít vào và thở ra.
Trao đổi khí : Chức năng chính của phổi liên quan đến việc chuyển oxy từ không khí hít vào vào máu và chuyển carbon dioxide từ máu vào không khí thở ra. Tại sao chúng ta cần trao đổi khí? Trao đổi khí ở phổi. Chúng ta cần đưa oxy từ không khí vào máu, và chúng ta cần loại bỏ carbon dioxide thải từ máu vào không khí.
Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu sự thay đổi của muỗi truyền bệnh sốt rét tại một số địa phương ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu (2000 - 2013)
Trao đổi khí ở phổi Nhờ hoạt động của lồng ngực với sự tham gia của các cơ hô hấp mà ta thực hiện được hít vào và thở ra, giúp cho không khí trong phổi thường xuyên được đổi mới. Trao đổi khí ở phổi gồm sự khuếch tán của O 2 từ không khí ở phế nang vào máu và của CO 2 từ máu vào không khí phế nang. Sự trao đổi khí được diễn ra trên bề mặt hô hấp.
gXpUNRe. a/. Sự trao đổi khí ở phổiSự trao đổi khí ở phổiNồng độ õy trong phế nag cao hơn và nồng độ khí cacbonic trong phế nang thấp hơn so với nồng độ các chất khí tương ứng có ở trong máu của các mao mạch O xy khuyếch tán từ phế nang vào máu và CÒ2 khuyếch tán từ máu vào phế trao đổi khí được diễn ra trên bề mặt hô hấp. Ở người có khoảng 700 triệu phế bào với diện tích chung là 120m2 ở nữ và 130m2 ở nam. Lớp mô bì của phế bào rất mỏng khoảng 0,007 mm 0,7µm. Diện tích chung của mao mạch tiếp xúc với phế bào rất lớn, khoảng 6000 m2. Ở phổi diễn ra quá trình trao đổi khí giữa phế nang và máu qua màng phế nang và màng mao mạch bao quanh phế phân tích thành phần khí, người ta xác định được phân áp áp suất riêng của O2 và CO2 của không khí trong phế nang và trong máu tĩnh mạch đến phổi, trong máu động mạch đến mô và trong áp O2 trong phế nang cao hơn trong mao mạch phổi nên theo quy luật khuêch tán thẩm thấu, O2 hoà tan trong lớp thành ẩm ướt của phế nang được khuếch tán qua lớp biểu mô và thành mao mạch phổi để vào máu. Còn phân áp CO2 trong mao mạch phổi lại cao hơn trong phế nang, nên CO2 khuếch tán từ mao mạch phổi vào phế nang. Sau khi vào mao mạch, O2 kết hợp với Hb, biến máu từ đỏ thẫm nghèo O2 thành máu đỏ tươi giàu O2 để vận chuyển về tim, rồi từ đó đến các bộ phận cơ độ khuếch tán của CO2 nhanh gấp 25 lần so với phổi, do áp suất CO2 thấp nên KHCO3 giải phóng thành H2CO3 ; H2CO3 bị thuỷ phân thành H2O và với sự thuỷ phân nhanh của HbCO2, CO2 cùng hơi nước khuếch tán ra ngoài phế nang và cuối cùng được thoát ra trao đổi khí ở tế bàoNồng độ o xy trong tế bào thấp hơn và nồng độ cacbonic trong tế báo cao hơn so với nồng độ các chất khí tương ứng có trong máu của các mao mạch tế OXy Khuyếch tán từ máu vào tế bào và cacbonic khuyếch tán từ tế bào vào tuần hoàn lấy O2 từ các phế nang để vận chuyển tới tế bào và lấy CO2 từ tế bào tới phổi để hệ hô hấp thải ra ngoài. Hai chu trình luân phiên nhau, liên tục. Nếu một trong hai ngừng thì cơ thể không tồn tại. Không có trao đổi khí ở tế bào thì cơ thể không cần nhu cầu lấy O2 vì thực chất tế bào là nơi chi dùng dinh dưỡng,O2 và là nơi tạo ra các sản phẩm phân hủy như CO2, các chất thải mà tế bào không xài thì O2 dư nên cơ thể không có nhu cầu lấy thêm; mặt khác quá trình chuyển hóa vật chất và dinh dưỡng ngay bên trong tế bào để tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động mà như vậy thì các chất dinh dưỡng sẽ không được oxi hóa quá trình chuyển hóa vật chất và dinh dưỡng do đó không có năng lượng cho cơ thể hoạt mô, các tế bào luôn xảy ra quá trình ôxi hoá các chất hữu cơ, nên hàm lượng O2 thấp hơn và hàm lượng CO2 cao hơn nhiều so với trong máu động mạch đến khí khuyếch tán từ nơi có phân áp cao đến nơi có phân áp thấp. Sự chênh lệch phân áp của mỗi nơi sẽ qui định chiều di chuyển của chất bảng trên, ta thấy phân áp O2 trong động mạch đến mô cao hơn ở bào chất, nên O2 khuếch tán từ máu động mạch sang bào chất của mô. Còn CO2 lại khuếch tán từ bào chất sang máu động mạch cho đến khi cân bằng phân áp O2 và CO2 giữa máu và dịch gian bào. Kết quả làm máu từ đỏ tươi giàu O2 thành máu đỏ thẫm giàu CO2, theo tĩnh mạch về áp suất CO2 rất cao, nên CO2 khuyếch tán qua màng tế bào hồng cầu, CO2 kết hợp với H2O tạo thành H2CO3 nhờ chất xúc tác cacbonidraza trong hồng cầu. Sau đó H2CO3 phân ly thành H+ và HCO3- , HCO3- lại khuếch tán ra ngoài huyết tương và kết hợp với Na+ tạo thành NaHCO3, rồi thành KHCO3
Áp suất được gây ra bởi tác động của phân tử chuyển động chống lại bề mặt, do đó, áp lực của khí tác động lên bề mặt của đường hô hấp và các phế nang cũng tỷ lệ thuận với lực tác động mà tất cả các phân tử khí ở bề mặt ngoài. Biên tập viên Trần Tiến Phong Đánh giá Trần Trà My, Trần Phương Phương Sau khi các phế nang alveoli được thông khí phổi, bước tiếp theo của quá trình hô hấp là sự trao đổi khuếch tán khí O2 từ phế nang vào trong máu phổi và sự khuếch tán khí CO2 theo hướng ngước lại là đi từ máu tới các phế nang. Quá trình khuếch tán chỉ đơn giản là sự khuếch tán qua lại 1 cách ngẫu nhiên giữa các phân tử khí khi qua màng hô hấp và dịch liền kề. Tuy nhiên trong sinh lý hô hấp ta không những quan tâm tới cơ chế cơ bản của sự khuếch tán mà còn là tốc độ nó xảy ra, đòi hỏi cần sự hiểu biết rất nhiều về vật lý của sự khuếch tán trao đổi khí. Cơ sở phân tử của khuếch tán khí Tất cả các khí tập trung trong sinh lý học hô hấp là các phân tử có sự chuyển động tự do qua lại trong quá trình khuếch tán. Điều này cũng đúng với chất khí hoà tan trong chất lỏng và mô trong cơ thể. Trong quá trình khuếch tán cần phải được cung cấp năng lượng, nguồn năng lượng này được cung cấp bởi sự chuyển động động học các phân tửchú ý khi ở nhiệt độ không tuyệt đối sự chuyển động của các phân tử sẽ không còn. Đối với 1 số phân tử mà không có sự gắn bó với các phận tử khác nghĩa là có sự chuyển động tuyến tính tốc độ cao thì chúng sẽ tấn công các phân tử khác, sau đó chúng nảy đến các vị trí khác và tiếp tục di chuyển và lại tiếp tục tới tấn công các phân tử khác như vậy nữa. Bằng cách này mà các phân tử chuyển động 1 cách nhanh chóng và ngẫu nhiên! tưởng tượng tới sự chuyển động của các quả bi-a trên bàn bi-a D. Khuếch tán thực của dòng khí trong chuyển động 1 chiều - kết quả của Gradient nồng độ Nếu có 1 buồng khí hay 1 dung dịch có nồng độ cao của 1 chất khí đặc biệt tại 1 đầu của 1 buồng và nồng độ thấp tại 1 đầu kết thúc như thể hiện trong hình thì sự khuếch tán thực của chất khí là đi từ vùng có nồng độ tới vùng có nồng độ thấp. Lý do rõ ràng các phân tử ở đầu A của buồng và ngược lại. Do đó tốc độ khuếch tán của 1 trong 2 hướng là có sự cân đối khác nhau được biểu hiện bằng hình mũi tên trong hình. Hình. Sự khuếch tán oxy từ đầu này sang đầu kia của buồng. Sự khác biệt giữa độ dài của các mũi tên thể hiện sự khuếch tán ròng Áp lực của 1 chất khí trong hỗn hợp các chất khí - Áp xuất riêng phần của từng chất khí Áp suất được gây ra bởi nhiều tác động của các phân tử chuyển động chống lại một bề mặt, do đó, áp lực của một chất khí tác động lên bề mặt của đường hô hấp và các phế nang cũng tỷ lệ thuận với lực tác động mà tất cả các phân tử khí ở bề mặt ngoài. Điều này có nghĩa rằng áp lực là tỷ lệ thuận với nồng độ chất khí. Trong sinh lý hô hấp với các chất khí của sự hô hấp như O2, CO2 và N2 thì tỷ lệ khuếch tán của mỗi của các loại khí là tỷ lệ thuận áp lực gây ra bởi khí đó một mình, mà được gọi là áp suất riêng phần của khí phân áp. Khái niệm về áp suất riêng phần có thể được giải thích như sau Trong không khí khi ta coi có 79% là Nito và 21% là O2, với áp xuất của không khí là 760mmHg mà lại có áp lực mà mỗi loại khí góp phần vào việc tổng áp lực tỷ lệ thuận với nồng độ của nó nên 79% của 760mmHg được tạo bởi N2 600mmHg và 21% của 760mmHg được tạo bởi O2 160mmHg. Như vậy áp xuất riêng phần của từng chất khí là áp xuất riêng rẽ của các khí trong hỗn hợp khí được tạo bởi tổng của PO2, PN2, PCO2, và các chất khí khác. Áp lực của khí hoà tan trong nước và mô Khí hoà tan trong nước hoặc mô trong cơ thể cũng gây áp lực và các phân tử khí hòa tan được di chuyển ngẫu nhiên và có động năng. Hơn nữa, khi các khí hòa tan trong chất lỏng gặp một mặt như màng của một tế bào, nó cũng tác động áp xuất riêng phần của mình lên mặt đó. Những áp lực một phần các khí hoà tan riêng biệt được tạo giống như những áp lực riêng phần trong không khí- Nó gồm PO2, PCO2, PN2 và các chất khí khác. Những yếu tố quyết định áp suất riêng phần của một khí hoà tan trong 1 chất dịch Áp xuất riêng phần của 1 chất khí cũng như trong dung dịch đươc xác định không chỉ bởi nồng độ của nó mà còn được xác định bởi hệ số hoà tan của chất khí đó solubility coefcient, đặc biệt là CO2 ,được các phân tử nước hút lại trong khi các loại phân tử khác thì bị đẩy lùi nên phân tử đó tan ra và sẽ không tạo nhiều áp xuất trong dung dịch và ngược lại các phân tử khác bị nước đẩy ra và sẽ tạo nhiều áp xuất trong dung dịch. Mối quan hệ này được thể hiện bằng quy luật Henry Partial pressure = Concentration of dissolved gas/Solubility coeff icient Với Partial pressure áp xuất riêng phần. Concentration of dissolved gas nồng độ chất khí. Solubility coefficient hệ số hoà tan. Chú ý áp xuất riêng phần được tính bằng áp xuất khí quyển atm. Ta có hệ số hoà tan của 1 số chất Oxygen Carbon dioxide Carbon monoxide Nitrogen Helium Từ bảng trên ta thấy CO2 có hệ số hoà tan gấp khoảng 20 lần O2, do đó áp suất riêng phần của CO2 đối với một nồng độ nhất định là ít hơn 1/20 lần so với O2. Sự khuếch tán của các khí giữa các pha khí trong phế nang và các giai đoạn hoà tan trong máu phổi Áp xuất riêng phần của mỗi khí trong phế nang có xu hướng ép các phân tử khí đó vào máu mao mạch của phế nang và ngược lại áp xuất riêng phần của mỗi khí trong máu mao mạch của phế nang có xu hướng đẩy các phân tử này vào trong phế nang. Nên tỷ lệ các phân tử khí được khuếch tán tỷ lệ thuận với áp xuất riêng phần mỗi khí. Nhưng sự chuyển động 1 chiều của khuếch tán thực của các phân tử khí có xảy ra? Để giải thích điều này, đó là sự khác nhau giữa 2 áp xuất riêng phần, ví dụ ở phế nang có áp xuất riêng phần O2 lớn hơn áp xuất riêng phần của O2 trong mao mạch máu của phế nang nên O2 sẽ đi từ phế nang sang mao mạch và ngược lại đối với CO2.
Kết quả đo đạc áp suất riêng phần đơn vị tor của khítrong cơ thể như sauChất khi Phế nangO2CO299,839Máu ở tỉnh Máu ở động tổ chứcmạch phổimạch chủ3845-489939,62053-76Dựa vào định luật Henry, chúng ta hiểu được chiều vậnchuyển O2,và CO2 trong cơ thể theo chu kỳ - O2 khuyếch tán Từ phế nang → máu ở các tĩnh mạch → máuđộng mạch → các mơ, tế bào- CO2 ngược lại Từ các mơ, tế bào → máu động mạch → máu ởcác tĩnh mạch → phế nang • Theo định luật Fick , lượng khí khuyếch tán còn tỷ lệ thuậnvới diện tích mặt tiếp xúc S. Vì vậy, đối với cơ thể người,diện tích chung đối với phế nang khoảng 50m2 và đối vớimao mạch người ta đã biết là 500 700 m2 việc trao đổikhí rất thuận lợi .•Chú ý rằng,bên cạnh quy luật khuyếch tán trên còn có mộtcơ chế khác mà qua nghiên cứu người ta thấy các thànhphần trong máu đã đóng vai trò quan trọng trong q trìnhvận chuyển khi trong cơ thể. 4. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự vận chuyển khítrong cơ thể•Yếu tố bên trong cơ thể- Hoạt động thở, hoạt động của các phế nang,sự lưu thơngkhơng Vai trò tuần hồn máu , khối lượng lẫn chất lượng máu .- Hoạt động chuyển hóa ở tế bào, mơ .- Hoạt động điều khiển của hệ thần kinh cao cấp liên quan vớihơ hấp.•Yếu tố bên ngồi cơ thể- Ảnh hưởng của tỷ lệ thành phần khí cuả O2 và CO2 cần thiếtcho cơ Ảnh hưởng của trọng lực gây ra lực cản đối với các cơ khihít vào và làm giảm thể tích lồng ngực khi thở ra. IV. TRẠNG THÁI CĂNG MẶT NGỒI CỦACHẤT LỎNG1. ÁP SUẤT PHÂN TỬ CỦA CHẤT LỎNG- Phân tử A nằm trong lòng chất lỏng Vì đối xứng, tổng hợp lực hút tácdụng lên các phân tử này là triệt Phân tử B nằm ở mặt ngồi chất lỏngBị các phân tử ở lớp trong hút vàophía trong lòng chất lỏng. Lực hút cácphân tử này gây ra áp suất gọi là ápsuất phân tử của chất lỏng khơng đođược bằng thực nghiệm. có dạng api = 2VµBBA
Trao đổi khí là quá trình sinh học mà theo đó các khí di chuyển thụ động bởi sự khuếch tán qua bề mặt. Vậy cụ thể Trao đổi khí ở phổi là quá trình? ra sao mời độc giả theo dõi nội dung bài viết sau của Luật Hoàng hỏiTrao đổi khí ở phổi là quá trình? đổi khí ở phổi là sự khuếch tán của O2 từ không khí ở phế nang vào đổi CO2 từ máu vào không khí ở phế đổi khí ở phổi gồm sự khuếch tán của O2 từ máu vào không khí ở phế nang và của CO2 từ không khí ở phế nang vào đổi khí ở phổi gồm sự khuếch tán của O2 từ không khí ở phế nang vào máu và của CO2 từ máu vào không khí ở phế án đúng đổi khí ở phổi là quá trình trao đổi khí ở phổi gồm sự khuếch tán của O2 từ không khí ở phế nang vào máu và của CO2 từ máu vào không khí ở phế nang, cụ thể khi nồng độ O2 trong không khí phế nang cao hơn trong máu mao mạch nên O2 khuếch tán từ không khí phế nang vào máu và nồng độ CO2 trong máu mao mạch cao hơn trong không khí phế nang nên CO2 khuếch tán từ máu vào không khí phế nang. Lý giải việc chọn đáp án D là đáp án đúng do– Các khí trao đổi ở phổi và tế bào đều theo cơ chế khuếch tán từ nơi có nồng độ cao tới nơi có nồng độ thấp. Nhờ hoạt động của lồng ngực với sự tham gia của các cơ hô hấp mà ta thực hiện được hít vào và thở ra, giúp cho không khí trong phổi thường xuyên được đổi mới.– Trao đổi khí ở phổi gồm sự khuếch tán của 02 từ không khí ở phế nang vào máu và của C02 từ máu vào không khí phế nang. Cụ thể+ Nồng độ O2 trong không khí phế nang cao hơn trong máu mao mạch nên O2 khuếch tán từ không khí phế nang vào máu.+ Nồng độ CO2 trong máu mao mạch cao hơn trong không khí phế nang nên CO2 khuếch tán từ máu vào không khí phế nang.– Trao đổi khí ờ tế bào gồm sự khuếch tán của 02 từ máu vào tế bào của C02 từ tế bào vào máu.– Bên cạnh đó quá trình trao đổi khí ở phổi khí oxi từ phế bào đc chuyển đến hồng cầu và trao đổi thành cacbonic rồi trở về phế bào, còn trao đổi khí ở tế bào thì oxi từ hồng cầu -> tế bào ở các mô cơ thể chuyển thành cacbonic -> mao mạch.
việc trao đổi khí là gì? Nếu không có nó không thể làm hầu như không có sinh vật sống. trao đổi khí ở phổi và các mô, cũng như máu giúp để làm ướt các tế bào với các chất dinh dưỡng. Nhờ có anh ấy, chúng tôi nhận năng lượng và sức sống. việc trao đổi khí là gì? Đối với sự tồn tại của các sinh vật sống cần không khí. Nó là một hỗn hợp của một đa số khí, tỷ lệ lớn trong số đó là oxy và nitơ. Cả hai khí là những thành phần cần thiết để đảm bảo cơ thể sống bình thường. Trong quá trình tiến hóa của các loại khác nhau đã phát triển các công cụ riêng của họ để sản xuất của họ, một số người đã phát triển phổi, trong khi những người khác - mang, trong khi những người khác chỉ sử dụng da. Với sự giúp đỡ của các cơ quan này đang tiến hành trao đổi khí. việc trao đổi khí là gì? Đó là sự tương tác của các tế bào và môi trường sống, mà xảy ra trong việc trao đổi oxy và carbon dioxide. Trong hô hấp với oxy không khí được cung cấp vào cơ thể. Bão hòa tất cả các tế bào và các mô, nó được tham gia vào các phản ứng oxy hóa, thành carbon dioxide, được bài tiết cùng với các sản phẩm khác của sự trao đổi chất. trao đổi khí ở phổi Mỗi ngày chúng ta hít thở hơn 12 kg không khí. Trong này, chúng tôi được sự giúp đỡ của phổi. Họ là những cơ thể rộng lớn nhất có thể chứa đến 3 lít không khí trong một hơi thở sâu đầy đủ. trao đổi khí ở phổi diễn ra bằng các phương tiện của các phế nang - nhiều bong bóng được đan xen với các mạch máu. Không khí đi vào chúng thông qua đường hô hấp trên, đi qua khí quản và phế quản. Kết nối với các mao mạch phế nang mất không khí và vượt qua nó thông qua hệ thống tuần hoàn. Đồng thời họ cung cấp cho các phế nang của khí carbon dioxide, mà rời khỏi cơ thể với thở ra. Quá trình trao đổi giữa phế nang và các mạch máu được gọi là khuếch tán song phương. Nó diễn ra chỉ trong vài giây và được thực hiện bởi sự khác biệt trong áp lực. Trong không khí oxy được nữa, vì vậy ông chạy đến các mao mạch. Carbon dioxide có áp suất thấp hơn, làm cho phế nang và đẩy ra. sự lưu thông Nếu không có hệ thống tuần hoàn của sự trao đổi khí ở phổi và các mô sẽ là bất khả thi. Cơ thể chúng ta bị xuyên thủng bởi một đa số của các mạch máu có độ dài khác nhau và đường kính. Họ đều có phần động mạch, tĩnh mạch, mao mạch và tiểu tĩnh mạch t. D. Các mạch máu không ngừng lưu hành, tạo điều kiện cho việc trao đổi khí và các chất. trao đổi khí trong máu được thực hiện bằng phương tiện của hai lưu thông. Khi hít thở không khí bắt đầu di chuyển trong một vòng tròn lớn. Trong máu, nó được chuyển bằng cách gắn vào một hemoglobin protein đặc biệt, được tìm thấy trong các tế bào máu đỏ. không khí từ phế nang vào mao mạch giảm, và sau đó trong động mạch, hướng thẳng vào tim. Trong cơ thể chúng ta, nó đóng một bơm mạnh mẽ, bơm máu giàu ôxy đến các mô và tế bào. Họ, đến lượt nó, cung cấp cho máu, tràn đầy khí carbon dioxide, chỉ đạo tiểu tĩnh mạch và tĩnh mạch của nó trở về tim. Đi qua tâm nhĩ phải, huyết khối tĩnh mạch hoàn thành một vòng tròn lớn. Tâm thất phải bắt đầu vòng tuần hoàn phổi. Theo đó, máu được chưng cất trong cốp xe phổi. Nó di chuyển qua các động mạch, tiểu động mạch và mao mạch, mà làm cho trao đổi không khí với các phế nang, để bắt đầu chu kỳ một lần nữa. Exchange trong các mô Vì vậy, chúng ta đều biết những gì trao đổi khí của phổi và máu. Cả hai hệ thống thực hiện các loại khí và chia sẻ chúng. Tuy nhiên, vai trò quan trọng thuộc về các mô. Chúng xảy ra chủ yếu là quá trình thay đổi thành phần hóa học của không khí. Động mạch tế bào máu oxygenates chạy trong họ một loạt các phản ứng oxi hóa khử. Trong sinh học, chúng được gọi là chu trình Krebs. thực hiện của họ đòi hỏi các enzym mà cũng đi cùng với máu. Trong chu trình Krebs hình thành citric, các sản phẩm axit axetic hoặc khác của quá trình oxy hóa của chất béo, axit amin và glucose. Đây là một trong những bước quan trọng nhất mà đi kèm với việc trao đổi khí ở các mô. Trong khóa học của mình miễn là năng lượng cần thiết cho hoạt động của tất cả các cơ quan và hệ thống cơ thể. Đối với việc thực hiện các phản ứng sử dụng một oxy hoạt động. Dần dần, nó bị oxy hóa thành carbon dioxide - CO 2 được phát hành từ các tế bào và các mô vào máu, và sau đó trong phổi và khí quyển. trao đổi khí ở động vật Cấu trúc của hệ thống và các cơ quan của nhiều loài động vật của cơ thể thay đổi đáng kể. Các giống nhất với con người là một động vật có vú. động vật nhỏ, ví dụ planarians, không có hệ thống phức tạp đối với trao đổi chất. Thở họ sử dụng vỏ bọc bên ngoài. Động vật lưỡng cư để thở bằng da cũng như miệng và phổi. Hầu hết các loài động vật sống trong nước, trao đổi khí được thực hiện bằng các phương tiện mang. Họ là những tấm mỏng kết nối với các mao mạch và chuyển tiếp chúng đến oxy ra khỏi nước. Động vật chân đốt, rết như vậy, lỗi thuốc, nhện, côn trùng, không có ánh sáng. Trên bề mặt của cơ thể chúng được đặt khí quản, mà không khí trực tiếp trực tiếp với các tế bào. Hệ thống này cho phép họ di chuyển một cách nhanh chóng mà không cần trải qua khó thở và mệt mỏi, bởi vì năng lượng của quá trình hình thành nhanh hơn. Gas trao đổi trong các nhà máy Ngược lại, động vật trong các mô thực vật trao đổi khí bao gồm tiêu thụ và ôxy, và carbon dioxide. Họ tiêu thụ oxy trong hô hấp. Cây không cần phải làm các cơ quan đặc biệt, vì vậy không khí chảy vào chúng thông qua tất cả các bộ phận của cơ thể. Nói chung, những chiếc lá có diện tích lớn nhất, và số tiền cơ bản của không khí rơi vào chúng. Oxy vào chúng thông qua các lỗ nhỏ giữa các tế bào, gọi là khí khổng, xử lý và hiển thị đã có trong các hình thức của khí carbon dioxide, cũng như ở động vật. Một tính năng đặc biệt của nhà máy là khả năng quang hợp. Do đó, họ có thể chuyển đổi các thành phần vô cơ trong ánh sáng hữu cơ và sử dụng các enzym. Trong quang hợp, carbon dioxide được hấp thụ và oxy được sản xuất, vì vậy các nhà máy này là "nhà máy" để làm giàu không khí. Các tính năng trao đổi khí là một trong những chức năng quan trọng nhất của bất kỳ cơ thể sống. Nó được thực hiện với sự giúp đỡ của hơi thở và tuần hoàn máu, thúc đẩy sự giải phóng năng lượng và trao đổi chất. trao đổi các tính năng khí nằm trong thực tế rằng nó không phải luôn luôn chạy theo cùng một cách. Ở nơi đầu tiên nó không phải là có thể mà không thở, ngừng của nó trong 4 phút có thể dẫn đến rối loạn của các tế bào não. Theo kết quả của sinh vật này chết. Có rất nhiều loại bệnh, trong đó vi phạm trao đổi khí xảy ra. Vải không nhận được đủ oxy, mà làm chậm sự phát triển và chức năng của chúng. Sự không đồng nhất của trao đổi khí xảy ra ở những người khỏe mạnh. Nó làm tăng đáng kể với công việc chuyên sâu của cơ bắp. Chỉ sáu phút nó đạt công suất tối đa và tuân thủ nó. Tuy nhiên, khi tăng cường số lượng tải của oxy có thể bắt đầu tăng lên, đó cũng là khó chịu tâm trạng tăng cường cơ thể.
sự trao đổi khí ở phổi